những yếu tố chính ảnh hưởng đến các cặp tiền tệ chính một cách cụ thể:
EUR/USD: Mặc dù đã được đề nghị lần đầu từ n bnhăm 1978, cái tên EURO chỉ chính thức được đặt vào 12/1995 bởi liên đoàn kinh tế Châu Âu và ngoại tệ này bắt đầu được dùng trong việc buôn bán điện năng vào 1/1/1999, chính thức hợp pháp hóa vào 1/1/2002. Những chỉ số kinh tế cho các nước trong khối cộng đồng chung CHâu Âu giống với các chỉ số của Mỹ : như chỉ số GDP của cả khối CHâu Âu là 6.3 nghìn tỉ đô so với 8.1 nghìn tỉ đô của MỸ. Trong các giao dịch quốc tế ngoài khu vực CHâu Âu, cổ phiếu của Mỹ cũng ko thấp hơn CHâu Âu là bao nhiêu ( chiếm 17% so với 19%).
EUR/USD có thể là cặp tiền tệ được biết đến và được trade nhiều nhất trên thế giới. THường được gọi là “ chống đồng đô” vì sự nhạy cảm đặc biệt của nó với tư liệu kinh tế Mỹ, cặp tiền tệ này phản ánh tốt nhất hiện trang kinh tế Mỹ đối với toàn bộ phần còn lại của Thế giới. Dù riêng ngoại tệ này đã tăng đều so với đồng đô trong một vài năm gần đây, một sự đổi chiều có thể xảy đến rất nhanh. Đến tận khi đó, cặp tiền tệ này vẫn tạo rất nhiều cơ hội trade, với mức trung bình vào khoảng hơn 100 pips mỗi ngày.
1 vài thủ thuật trade cặp này:
_ Vì Mỹ là nước tiêu thụ nhiều dầu và các loại chất đốt nhất Thế Giới. nên bất cứ một sự thay đổi nào trong giá dầu đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá của đồng đô, điều mà, sau đó ngay lập tức phản ánh trên giá trị của cặp tiền này. Khi giá dầu tăng, Mỹ phải trả nhiều tiền hơn để mua dầu và từ đó mà giá trị của đồng đô tụt giảm so với đồng EUR.
_ EUR/USD có thể trải qua xu thế tăng nhanh và tụt giảm mạnh mà sau đó cập tiền tệ này thường di chuyển trong một cái khung trong một khoảng thời gian ( gọi là range-bound trade). Một trader tháo vát có thể kiếm được rất nhiều tiền nhờ việc trading theo khoảng. đối với cặp tiền này.
_ Khi Fed tăng mức lãi xuất tiết kiệm cao hơn mức của Châu Âu những nhà đầu tư nước ngoài bị hấp dẫn đầu tư vào Mỹ và vì thế mà kích thích giá trị của đồng đô. Khi ngân hàng trung ương Châu Âu ( ECB) tăng lãi xuất tiết kiệm, điều ngược lại xảy ra, EUR đi lên.
_ Sự thâm hụt thương mại của Mỹ ( nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu) và sự thâm hụt ngân sách ( chi nhiều hơn thu) đã đẩy giá trị của đồng đô xuống thấp. Khi nhập khẩu của Châu Âu vượt quá xuất khẩu, đồng EUR suy yếu.
_ Dù kinh tế vẫn luôn phát triển đều đăn, số việc làm cần có vẫn ko giữ được nhịp độ của nó, dẫn đến việc rất nhiều nhà kinh tế học gọi đó là một quá trình phục hồi ko việc làm”. Báo cáo NFP vì vậy mà được các trader theo dõi chặt chẽ và có một ảnh hưởng lớn đến giá trị của đồng Đô. Ngược lại, Đức, nước có nền kinh tế lớn nhất Châu Âu, lại được các trader theo dõi rất chặt chẽ, và tỉ lệ thất nghiệp của nước này được một số đông cho là thước đo của điều kiện kinh tế trong khu vực Châu Âu. Vì cặp tiền tệ này thường đi theo xu hướng nhiều hơn là theo khoảng, những indicator như moving averages hay crossovers thương huu dụng hơn Bollinger band hoặc RSI ( mời các bạn xem các phân tích kĩ thuật để biết thêm chi tiết)
GBP/USD: Nước Anh là một nước có nền kinh tế lớn đứng thứ 4 trên thế giới với chỉ số GDP hơn 3 ngàn tỉ đô. GBP/USD cũng là một trong cặp tiện tệ thú vị và bất ổn nhất thế giới. Là cặp tiền tệ có lịch sử lâu đời với những biến động cực mạnh cặp tiền tệ này thường di chuyển hàng trăm pips một lúc, giúp cho trader có rất nhiều cơ hội với mọi khoảng thời gian. Mức dịch chuyển trung bình cho cặp này thường là trên 150 pips.
Thời gian tốt nhất để trade cặp này là từ 3:00 sáng EST cho tới 10:00 sáng EST
Thủ thuật trade:
Thị trường nhà cửa ở Anh là yếu tố hàng đầu để biểu thị về lạm phát. Tình trạng nhà cửa của GBP nổi lên như bong bóng xà phòng và đã tạo nên một loạt sự bùng nổ về giá cả và vì vậy những cải thiện mới đều được thị trừơng theo dõi chặt chẽ.
Đối với nền kinh tế Mỹ thị trường nhà của cũng là một thị trường rất nhạy cảm để dự đoán tương lai.Một sự tăng giá đột biến cũng có thể gợi ý cho lãi súât của Mỹ trong tương lai, và đó cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của đồng GBP/USD. Lãi suất tài khoản và sự thâm hụt kinh tế, chỉ số thất nghiệp và báo cáo số lượng hàng bán lẻ (retail sales), tỉ lệ thất nghiệp của anh và các cuộc họp của ngân hàng trung ương Anh (BOE) cũng vậy
*USD/JPY: Nhật là nước có nền kinh tế mạnh đứng thứ 3 trên thế giới với GDP vượt 4 ngàn tỉ đô. Cặp tiền tệ này cũng là một cặp tiền tệ rất lí thú đối với các traders: vì tất cả các yếu tố xung quanh nó như: Trung Quốc, dầu hoả, lxuà những nỗ lực của chính phủ. Tất cả những yếu tố đó đề đóng vai trò trong đường đi của cặp tiền tệ này.
Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Nhật trên thị trường thế giới và giá trị của loại tiền này, đồng Yên, luôn được nhà nước điều chỉnh từ xưa. Khi Trung Quốc định giá lại hoặc thả nổi giá trị của đồng Nhân dân tệ ( tức là cho phép đồng tiền này cao hơn và gần với giá trị thực tế hơn) xúât nhập khẩu của Nhật sẽ cạnh tranh được tốt hơn trên thị trường Mỹ và đồng tiền Nhật sẽ tăng giá.
Nhật là một nước nhập khẩu dầu nên khi giá dầu tăng đồng nghiã với việc Nhật phải trả nhiều hơn và theo đó mà giá trị của đồng Yên cũng giảm.
Vì giá trị của đồng Yên tương đối thấp, nên đồng tiền này thường được sử dụng làm tiền vốn của các giao dịch carry trades ( xem carry trades) và vì thế, mà đồng tiền này đặc biệt cảm với sự thay đổi về lãi xuất.
Điều quan trọng nhất là, vì đồng Yên tăng giá sẽ gây ảnh hưởng xấu đến xuất nhập khẩu của Nhật, khiến cho các sản phẩm của Nhật đắt đỏ hơn nên Ngân Hàng Nhật Bản luôn cố gắng cật lực để giữ cho giá trị của đồng Yên thấp hơn giá trị thật bằng cách xen vào thị trường ngoại tệ.
Thời điểm tốt nhất để trade cặp tiền tệ này là từ 6:00pm EST ( giờ mở cửa thị trường Châu Á) tới 9h tối EST và đầu giờ mở cửa thị trường Mỹ (8h sáng tới 10h am EST). Trung bình hàng ngày cặp tiền này dao động khoảng trên 100 pip.
USD/CHF: Lịch sử trung lập và ổn định của Thuỵ Điển đã giúp cho đồng France được biết đến như một “ngoại tệ an toàn”
Khi thị trường tài chính cảmt hấy sự bất ổn, chiến tranh, các hỉêm hoạ kinh tế, các thảm hoạ nhiệt đới, bất ổn chính trị phát sinh, trên thị trường có xu thế chuyển vốn về Thuỵ Điển – nước an toàn trung lập. Những thảm hoạ toàn cầu ko mong đợi hay những gia tăng đột biến về giá dầu cũng sẽ có ảnh hưởng tốt đến giá trị của đồng CHF, vì đồng tiền này là một trong số những tiền tệ vẫn tiếp tục được ủng hộ phần nào bởi vàng
Các thủ thuật trade:
Theo thống kê, 99% cặp USD/CHF đi ngược chiều cặp EUR/USD và di chuyển trong một vùng giá cả khi mà cặp EUR/USD như vậy. Nghĩa là khi đồng EUR/USD lên thì đồng USD/CHF hạ và ngược lại. Vì vậy, chỉ cần nắm bắt được chiều chuyển động của EUR/USD, bạn sẽ biết được chuyển động của USD/CHF.
Khoảng thời gian tốt nhất để giao dịch với capự này là khoảng thời gian đầu ngày khi thị trường Châu Âu mở cửa từ 3-->4h sáng và khi thị trường Mỹ bắt đầu mở cửa ( 8h đến 10h sáng EST). Thường thì cặp này dịch chuyển trên 120 pip một ngày.
AUD/USD: Úc là một quốc gia sản xuất vàng và vì thê khi giá vàng tăng tiền Úc cũng tăng. Trong khi đấy Mỹ với vàng lại có mối liên hệ hoàn toàn ngược lại, nghĩa là khi giá vàng tăng, giá trị của đồng đô la Mỹ sẽ giảm, tạo thêm một động lực hơn nữa để tiền Úc so sánh với tiền Mỹ.
USD/CAD: Giống như Úc, Canada cũng là một nước có nền tài nguyên phong phú với một số lượng lớn dự trữ dầu. Rất ít người biết một điều là Canada là nước sảm xuất dầu đứng thứ 9 trên thế giới, với lượng dữ trữ dầu lớn thứ nhì chỉ sau Ả Rập. Khi giá dầu quốc tế tăng, đồng đô la Canada cũng tăng.
(Sưu tầm)
Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2010
Thứ Năm, 11 tháng 2, 2010
Tác động của việc phá giá tiền tệ
Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá VND nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD, EUR...
Tác động của việc phá giá tiền tệ
Trong ngắn hạn
- Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.
Trong trung hạn
GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:- Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.
- Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.
Trong dài hạn
- Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.
Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ
- Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.
- Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ.
(Sưu tầm)
PHÁ GIÁ ĐỒNG BẠC ?
Sau sự sụt giá của đồng đô-la Mỹ, đồng lire Ý Đại Lợi, đồng livre Anh Quốc, đồng yen Nhật Bản, và đồng pesete Tây Ban Nha, chúng ta được nghe Giám Đốc Ngân Hàng QG Việt Nam tuyên bố về sự cần thiết của việc phá giá đồng bạc. Ít lâu sau, tại Pháp, cựu Tổng Thống Giscard d'Estaing cũng đã gây một phản ứng mạnh trong công luận với đề nghị giảm trị giá đồng franc đối với đô-la Mỹ và mark Đức. Phá giá đồng bạc phải chăng đã trở thành một chứng bệnh truyền nhiễm mới ? Ảnh hưởng của nó đối với các nền kinh tế rất khác biệt như Hoa Kỳ, Đức, Anh, Ý, Pháp, Nhật, và Việt Nam như thế nào ? Người ta cũng phải tự hỏi vì sao trong một thế giới đã có vẻ hoàn toàn quy phục "Thị Trường", nguời ta lại không để cho các quy luật trao đổi của thị trường quyết định giá trị tương đối của các đồng tiền với nhau ?
TRỊ GIÁ CỦA ĐỒNG BẠC TỪ ĐÂU RA ?
Vì sao bạn mê tiền, và hùng hục chạy kiếm tiền suốt cả cuộc đời xuân xanh của bạn cho đến lúc xuống lỗ ? Có lẽ vì đồng bạc có một giá trị mà bạn không bao giờ ngờ vực ? Giá trị ấy từ đâu ra, do ai ấn định, và ấn định cách nào ?
Từ năm 1973, tiền tệ của đa số các nước giàu có trên thế giới được thả nổi, với một số giới hạn, như trường hợp của Cộng Đồng Âu Châu. Trị giá của đồng tiền, như thế, tùy thuộc vào sự tổng hợp của ba yếu tố :
1) Mãi lực của đồng tiền :
Sở dĩ bạn mê tiền là vì bạn nghĩ rằng đồng tiền giúp bạn mua được cái đời sống mà bạn mong muốn, từ thức ăn thức uống cho đến xe cộ nhà cửa du hý ăn chơi, và, nhiều người tin rằng cả vợ con bạn bè v.v... nữa ! Đó là "sức mua" của đồng tiền. Giá trị của đồng tiền này đối với đồng tiền khác, trong điều kiện buôc bán tự do, thường trồi sụt để hướng đến một mãi lực tương đương giữa các đồng tiền ấy. Tức là làm sao để một số đồng franc nào đó đổi sang một số đồng đô-la nào đó đều có thể mua được cùng một số lượng hàng hóa. Giả sử lúc trước với 5 francs hay 1 đô-la anh mua được một cái bánh, bây giờ phải 6 francs, nhưng vẫn 1 đô-la, anh mới mua được cái bánh ấy, thì anh kết luận ngay rằng đồng franc đã sụt giá so với đồng đô-la.
2) Số lượng tiền lưu hành :
Nếu nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho chạy máy in tiền và tăng gấp đôi số lượng đồng bạc lưu hành, thì giá trị của đồng tiền Việt Nam sẽ giảm đi phân nửa, và sau một thời gian, giá cả sẽ tăng gấp đôi.
3) Lợi tức đem lại bởi đầu tư và tiết kiệm :
Khi các phó thường dân như bạn (và có lẽ cả tôi ?) đem tiền gửi trương mục tiết kiệm, thì món tiền ấy, cùng với những khối tiền to lớn của giới tài phiệt, liền được đem đi đầu tư vào những nơi mà người ta nghĩ là có lợi nhất. Giả sử tiền lời của tiết kiệm bằng mark cao hơn tiền lời của tiết kiệm bằng đô-la, thì các nhà đầu tư sẽ đem tiền của bạn đi mua mark. Theo luật cung cầu, khi nhiều người mua mark thì đồng mark sẽ lên giá, và đồng đô-la sụt giá so với đồng mark. Khi đồng mark đắt đến mức lợi nhuận mà nó đem lại (bằng tiền lời tiết kiệm) chỉ vừa bù lại sự chênh lệch trị giá giữa nó và đồng đô-la, thì người ta đạt đến sự quân bình : trị giá của đồng mark khi ấy chính là trị giá, được quyết định bởi thị trường đầu tư, của nó đối với đô-la.
Thuyết Dornbusch
tổng hợp ba yếu tố trên, và cho rằng :
- Trong ngắn hạn, các lãi suất tiết kiệm và đầu tư quyết định trị gía tương đối của các loại tiền với nhau. Không những thế, những tin đồn và dự đoán ít nhiều thuận lý về sự trồi sụt của các lãi suất nói trên cũng ảnh hưởng đến trị giá tương đối của các đồng tiền.
- Trong dài hạn, thì mãi lực quyết định trị giá tương đối giữa các đồng tiền. Trị giá được quyết định bởõi thị trường ban đầu chênh lệch với mãi lực của đồng tiền, nhưng nó sẽ được điều chỉnh để phù hợp với sức mua của đồng tiền ấy trong thị trường tiêu thụ thông thường.
CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CÁC NGÂN HÀNG QG VÀO THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ :
Tùy luật pháp của mỗi quốc gia, chính phủ hoặc ngân hàng quốc gia có thể can thiệp vào lãi suất để ảnh hưởng trên trị giá đồng tiền, với một hiệu quả nhanh chóng, như đã nói. Ngân hàng QG cũng có thể bỏ tiền ra để mua chính đồng tiền của mình hay một đồng tiền "bạn" khi các đồng tiền ấy bị tấn công, tức là bị các nhà đầu tư bán đi, hay không thèm mua nữa (vì đem lại lợi tức kém hơn họ mong muốn). Tại Pháp có lúc người ta đã phải tiêu ra trong một ngày một số tiền tương đương với một phần ba ngân sách quốc gia của cả năm để giữ giá cho đồng franc.
Một biện pháp phá giá ngoạn mục là tăng số lượng tiền lưu hành. Khi ấy, giá cả sẽ tăng, nhưng không tăng ngay, mà từ từ leo dần lên đến mức độ tương ứng với sự gia tăng của khối lượng tiền tệ. Trong một thời gian nào đó, giá cả chưa tăng kịp với sự gia tăng của trữ lượng tiền nên, trên lý thuyết, lãi suất tiết kiệm giảm. Các nhà đầu tư sẽ bớt giữ đồng tiền ấy, và trị giá của nó giảm đi . Tuy nhiên nhân hàng quốc gia có thể duy trì lãi suất cao để hạn chế điều này. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng lập tức dự đoán rằng đến một lúc nào đó, sự suy giảm của mãi lực của đồng tiền vừa được tăng khối lượng lưu hành, sẽ khiến cho đồng tiền ấy mất giá (cụ thể là giá cả tăng), nên họ đòi hỏi phải có lãi suất cao và/hoặc trị giá thấp của đồng tiền này, để tiếp tục giữ nó. Sự can thiệp của chính phủ hay ngân hàng QG cùng với những suy tính của thị trường trên các yếu tố này khiến đồng tiền có thể được đánh giá thấp hơn hay cao hơn trị giá "thực" của nó (được chấp nhận là dựa trên mãi lực).
ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÁ GIÁ ĐỒNG BẠC :
1) Khi đồng bạc của một quốc gia sụt giá thì mãi lực của nó đối với các đồng tiền khác kém đi, nên hàng hóa của ngoại quốc mua vào sẽ đắt hơn. Ngược lại, mãi lực của các đồng tiền khác đối với đồng tiền bị sụt giá sẽ tăng lên, và hàng hóa bán ra ngoài sẽ rẻ hơn, vì được mua bởi những đồng tiền có mãi lực cao. Phá giá đồng tiền lợi cho xuất cảng, hại cho nhập cảng.
2) Đối với nền sản suất nội địa, phá giá đồng tiền khiến cho hàng nhập cảng đắt hơn, nên khuyến khích người dân mua hàng nội hóa, lợi cho các xí nghiệp, lợi cho việc tạo công ăn việc làm. Các xí nghiệp làm ra các mặt hàng xuất cảng đương nhiên là cũng được lợi, nhờ giá bán ra rẻ hơn, có sức cạnh tranh mạnh hơn, đối với hàng hóa của các nước khác, nên cũng tốt cho việc tạo ra công ăn việc làm.
3) Ngược lại, hàng nhập cảng sẽ đắt hơn, và những xí nghiệp bị bắt buộc phải nhập cảng máy móc hay nguyên liệu chẳng hạn, sẽ bị thiệt thòi.
4) Thêm vào đó, giá cả sẽ tăng, và trong một số trường hợp mãi lực của người dân sẽ giảm.
5) Đầu tư ngoại quốc có thể giảm, tiết kiệm quốc nội cũng có thể giảm, vì những lý do đã nói ở trên. Kết quả có thể là một sự thiếu hụt vốn đầu tư.
6) Phá giá đồng bạc có khi được coi như làm cho quốc gia nghèo đi (bớt đầu tư, mua hàng ngoại quốc đắt hơn, v.v...) và như một loại thuế trá hình (khi mãi lực của người dân suy giảm). Có một số trường hợp đặc biệt, như Hoa Kỳ, có khả năng giảm giá đồng đô-la, và coi đó chẳng khác nào như là "đánh thuế" tất cả những người giữ đô-la trên thế giới, bắt họ đóng góp cho nền kinh tế của mình !
TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM :
Nếu Hoa Kỳ là một trường hợp ngoại lệ, thì trường hợp của Việt Nam cũng đặc biệt không kém:
1) Trước hết, cách "quản lý" vấn đề tiền tệ của Việt Nam đặc biệt kỳ quái : thông thường ít có chính phủ hay ngân hàng QG nào lại rêu rao suốt nhiều tuần trước là mình có thể phá giá đồng bạc, để rồi rốt cuộc lại không phá giá. Cách làm việc này đem lại mọi sự bất lợi : xáo trộn tiền tệ, giới đầu tư càng thêm ngại ngùng, dân chúng càng thêm mất tin tưởng vào chính sách tiền tệ khiến cho tiết kiệm đã kém lại càng kém hơn... Ngược lại không thấy có lợi gì cho nước nhà trong cách hành xử này, họa chăng chỉ có những lợi lộc kiểu mánh mung phe phái. Có thể giám đốc ngân hàng nhà nước đã thành thật cảm thấy nhu cầu cần phải giảm giá đồng bạc Việt Nam, nhưng ông không có quyền hạn để làm việc này, nên chỉ dám đưa ra trước công luận nhằm tạo một sự đã rồi. Sau đó, các áp lực đến từ nước ngoài trên các phe phái chia sẻ quyền hành ở Việt Nam đã mạnh mẽ đến độ ông phải lùi bước ? Người ta cũng không khỏi tự hỏi : ở Việt Nam những ai thực sự quyết định chính sách tiền tệ ? Một câu hỏi gần như không bao giờ phải đặt ra trong một nươc văn minh, vì đã có những định chế rõ ràng...
2) Vì sao có vấn đề phá giá đồng bạc Việt Nam ? Có những lý do để nghĩ rằng giải pháp này được đề ra trước sự thua lỗ của cán cân mậu dịch : trong tám tháng đầu năm 1996, Việt Nam đã nhập cảng nhiều hơn xuất cảng 3 tỷ 250 triệu đô-la (chưa kể hàng nhập cảng lậu). Như đã nói ở trên, giảm trị giá tiền có lợi cho xuất cảng, và bất lợi cho nhập cảng cũng như cho việc tiêu sài hàng ngoại hóa. Vì thế, trên mặt hình thức, phá giá có thể là một cách làm giảm bớt sự thất thoát tài chánh do nhập cảng nhiều xuất cảng ít. Tuy nhiên, một trong những điều khác biệt giữa Việt Nam với các nước đã giảm trị giá tiền tệ đã kể ở đầu bài, là Việt Nam chưa có một nền sản xuất mạnh. Vì thế, xuất cảng chưa chắc đã mạnh hơn nhờø đồng bạc sụt giá, vì hàng hóa dành cho xuất cảng thiếu phẩm chất và số lượng (dù rẻ cũng chưa chắc đã cạnh tranh được với hàng hóa nước khác). Số tiền phải tiêu dùng cho nhập cảng cũng chưa chắc đã giảm sút một cách thực sự hiệu quả vì nền sản xuất non kém của Việt Nam bắt buộc các xí nghiệp và tư nhân phải nhập cảng nhiều hàng hóa mà trong nước chưa làm ra được. Đó là chưa kể những nguyên liệu cần yếu cho kinh tế, bắt buộc phải mua của nước ngoài, với giá đắt hơn, vì đồng bạc Việt Nam giảm giá, giảm sức mua.
3) Một điểm khác biệt khác của kinh tế Việt Nam là sự yếu kém tiết kiệm và đầu tư nội địa. Giảm giá đồng bạc sẽ làm gia tăng khía cạnh tiêu cực này, vì nó làm cho người dân càng thêm mất tin tưởng nơi chính sách tiền tệ của chính quyền. Người dân sẽ càng thêm lùi về ẩn trốn trong các phương cách giữ tiền không có lợi cho kinh tế, như vàng và đô-la.
4) Sau hết, cần sác định đâu là động cơ chính của sự phát triển kinh tế : gia tăng tiêu thụ hay thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư ? Trong các quốc gia tiền tiến, phương thuốc cho căn bệnh trì trệ kinh tế thường là thúc đẩy tiêu thụ. Điểm khác biệt then chốt với Việt Nam là các quốc gia này có khả năng sản suất tương đối đầy đủ mặt hàng cho người dân tiêu thụ. Ngược lại, Việt Nam còn quá kém trong lãnh vực sản xuất, thêm vào đó sự tăng trưởng từng giai đoạn của lãnh vực sản xuất cho tiêu dùng nội địa chưa được điều hướng theo một kế hoạch thuận lý, mà dựa nhiều hơn vào sự chia chác giữa các phe phái cầm quyền. Vì thế, thúc đẩy tiêu thụ ở Việt Nam (phá giá, lãi suất hạ,v.v...) sẽ phần nào đồng nghĩa với "tiêu thụ hàng ngoại hóa", mang lại lợi nhuận cho các xí nghiệp ngoại quốc nhập cảng hàng hóa vào Việt Nam (một tỷ đô-la mà Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đưa vào quốc nội hàng năm một phần không nhỏ chỉ ghé ngang Việt Nam chơi chút rồi chạy ngay vào túi các chủ nhân ngoại quốc bán hàng vào nước ta).
KHUYẾN KHÍCH TIẾT KIỆM , GIẢM BỚT TIÊU THỤ
Nếu một chính sách thúc đẩy tiêu thụ không thích hợp với Việt Nam thì có thể nghĩ là cần khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Cần nhắc lại rằng đầu tư ngoại quốc trong các thập niên 60 và 70 tại Nam Hàn và Đài Loan nhỏ hơn 5 phần trăm tổng số đầu tư tại các nước này (viện trợ Mỹ, 100 triệu MK mỗi năm cho Đài Loan chấm dứt năm 1965, và cho Nam Hàn : 270 triệu MK mỗi năm cho đến cuối thập niên 60 và 140 triệu MK sau đó, chấm dứt vào giữa thập niên 70, viện trợ kinh tế cho Nam Hàn từ 1953 đến 1962 bằng 8 % Tổng sản lượng QG, và từ 1965 tới 1974 bằng 4 % TSLQG). Điều này cho thấy sức mạnh của đầu tư nội địa tại các nước trên. Không phải ngẫu nhiên mà Đài Loan hiện trở thành một trong những nước có trữ lượng tiền tệ cao nhất thế giới : nước này, trái hẳn với điều chúng ta thường thấy tại các nước Âu Mỹ hiện nay, đã áp dụng một chính sách tiền tệ thúc đẩy tiết kiệm, với lãi suất cao, và đồng tiền mạnh...
TRỊ GIÁ CỦA ĐỒNG BẠC TỪ ĐÂU RA ?
Vì sao bạn mê tiền, và hùng hục chạy kiếm tiền suốt cả cuộc đời xuân xanh của bạn cho đến lúc xuống lỗ ? Có lẽ vì đồng bạc có một giá trị mà bạn không bao giờ ngờ vực ? Giá trị ấy từ đâu ra, do ai ấn định, và ấn định cách nào ?
Từ năm 1973, tiền tệ của đa số các nước giàu có trên thế giới được thả nổi, với một số giới hạn, như trường hợp của Cộng Đồng Âu Châu. Trị giá của đồng tiền, như thế, tùy thuộc vào sự tổng hợp của ba yếu tố :
1) Mãi lực của đồng tiền :
Sở dĩ bạn mê tiền là vì bạn nghĩ rằng đồng tiền giúp bạn mua được cái đời sống mà bạn mong muốn, từ thức ăn thức uống cho đến xe cộ nhà cửa du hý ăn chơi, và, nhiều người tin rằng cả vợ con bạn bè v.v... nữa ! Đó là "sức mua" của đồng tiền. Giá trị của đồng tiền này đối với đồng tiền khác, trong điều kiện buôc bán tự do, thường trồi sụt để hướng đến một mãi lực tương đương giữa các đồng tiền ấy. Tức là làm sao để một số đồng franc nào đó đổi sang một số đồng đô-la nào đó đều có thể mua được cùng một số lượng hàng hóa. Giả sử lúc trước với 5 francs hay 1 đô-la anh mua được một cái bánh, bây giờ phải 6 francs, nhưng vẫn 1 đô-la, anh mới mua được cái bánh ấy, thì anh kết luận ngay rằng đồng franc đã sụt giá so với đồng đô-la.
2) Số lượng tiền lưu hành :
Nếu nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho chạy máy in tiền và tăng gấp đôi số lượng đồng bạc lưu hành, thì giá trị của đồng tiền Việt Nam sẽ giảm đi phân nửa, và sau một thời gian, giá cả sẽ tăng gấp đôi.
3) Lợi tức đem lại bởi đầu tư và tiết kiệm :
Khi các phó thường dân như bạn (và có lẽ cả tôi ?) đem tiền gửi trương mục tiết kiệm, thì món tiền ấy, cùng với những khối tiền to lớn của giới tài phiệt, liền được đem đi đầu tư vào những nơi mà người ta nghĩ là có lợi nhất. Giả sử tiền lời của tiết kiệm bằng mark cao hơn tiền lời của tiết kiệm bằng đô-la, thì các nhà đầu tư sẽ đem tiền của bạn đi mua mark. Theo luật cung cầu, khi nhiều người mua mark thì đồng mark sẽ lên giá, và đồng đô-la sụt giá so với đồng mark. Khi đồng mark đắt đến mức lợi nhuận mà nó đem lại (bằng tiền lời tiết kiệm) chỉ vừa bù lại sự chênh lệch trị giá giữa nó và đồng đô-la, thì người ta đạt đến sự quân bình : trị giá của đồng mark khi ấy chính là trị giá, được quyết định bởi thị trường đầu tư, của nó đối với đô-la.
Thuyết Dornbusch
tổng hợp ba yếu tố trên, và cho rằng :
- Trong ngắn hạn, các lãi suất tiết kiệm và đầu tư quyết định trị gía tương đối của các loại tiền với nhau. Không những thế, những tin đồn và dự đoán ít nhiều thuận lý về sự trồi sụt của các lãi suất nói trên cũng ảnh hưởng đến trị giá tương đối của các đồng tiền.
- Trong dài hạn, thì mãi lực quyết định trị giá tương đối giữa các đồng tiền. Trị giá được quyết định bởõi thị trường ban đầu chênh lệch với mãi lực của đồng tiền, nhưng nó sẽ được điều chỉnh để phù hợp với sức mua của đồng tiền ấy trong thị trường tiêu thụ thông thường.
CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CÁC NGÂN HÀNG QG VÀO THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ :
Tùy luật pháp của mỗi quốc gia, chính phủ hoặc ngân hàng quốc gia có thể can thiệp vào lãi suất để ảnh hưởng trên trị giá đồng tiền, với một hiệu quả nhanh chóng, như đã nói. Ngân hàng QG cũng có thể bỏ tiền ra để mua chính đồng tiền của mình hay một đồng tiền "bạn" khi các đồng tiền ấy bị tấn công, tức là bị các nhà đầu tư bán đi, hay không thèm mua nữa (vì đem lại lợi tức kém hơn họ mong muốn). Tại Pháp có lúc người ta đã phải tiêu ra trong một ngày một số tiền tương đương với một phần ba ngân sách quốc gia của cả năm để giữ giá cho đồng franc.
Một biện pháp phá giá ngoạn mục là tăng số lượng tiền lưu hành. Khi ấy, giá cả sẽ tăng, nhưng không tăng ngay, mà từ từ leo dần lên đến mức độ tương ứng với sự gia tăng của khối lượng tiền tệ. Trong một thời gian nào đó, giá cả chưa tăng kịp với sự gia tăng của trữ lượng tiền nên, trên lý thuyết, lãi suất tiết kiệm giảm. Các nhà đầu tư sẽ bớt giữ đồng tiền ấy, và trị giá của nó giảm đi . Tuy nhiên nhân hàng quốc gia có thể duy trì lãi suất cao để hạn chế điều này. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng lập tức dự đoán rằng đến một lúc nào đó, sự suy giảm của mãi lực của đồng tiền vừa được tăng khối lượng lưu hành, sẽ khiến cho đồng tiền ấy mất giá (cụ thể là giá cả tăng), nên họ đòi hỏi phải có lãi suất cao và/hoặc trị giá thấp của đồng tiền này, để tiếp tục giữ nó. Sự can thiệp của chính phủ hay ngân hàng QG cùng với những suy tính của thị trường trên các yếu tố này khiến đồng tiền có thể được đánh giá thấp hơn hay cao hơn trị giá "thực" của nó (được chấp nhận là dựa trên mãi lực).
ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÁ GIÁ ĐỒNG BẠC :
1) Khi đồng bạc của một quốc gia sụt giá thì mãi lực của nó đối với các đồng tiền khác kém đi, nên hàng hóa của ngoại quốc mua vào sẽ đắt hơn. Ngược lại, mãi lực của các đồng tiền khác đối với đồng tiền bị sụt giá sẽ tăng lên, và hàng hóa bán ra ngoài sẽ rẻ hơn, vì được mua bởi những đồng tiền có mãi lực cao. Phá giá đồng tiền lợi cho xuất cảng, hại cho nhập cảng.
2) Đối với nền sản suất nội địa, phá giá đồng tiền khiến cho hàng nhập cảng đắt hơn, nên khuyến khích người dân mua hàng nội hóa, lợi cho các xí nghiệp, lợi cho việc tạo công ăn việc làm. Các xí nghiệp làm ra các mặt hàng xuất cảng đương nhiên là cũng được lợi, nhờ giá bán ra rẻ hơn, có sức cạnh tranh mạnh hơn, đối với hàng hóa của các nước khác, nên cũng tốt cho việc tạo ra công ăn việc làm.
3) Ngược lại, hàng nhập cảng sẽ đắt hơn, và những xí nghiệp bị bắt buộc phải nhập cảng máy móc hay nguyên liệu chẳng hạn, sẽ bị thiệt thòi.
4) Thêm vào đó, giá cả sẽ tăng, và trong một số trường hợp mãi lực của người dân sẽ giảm.
5) Đầu tư ngoại quốc có thể giảm, tiết kiệm quốc nội cũng có thể giảm, vì những lý do đã nói ở trên. Kết quả có thể là một sự thiếu hụt vốn đầu tư.
6) Phá giá đồng bạc có khi được coi như làm cho quốc gia nghèo đi (bớt đầu tư, mua hàng ngoại quốc đắt hơn, v.v...) và như một loại thuế trá hình (khi mãi lực của người dân suy giảm). Có một số trường hợp đặc biệt, như Hoa Kỳ, có khả năng giảm giá đồng đô-la, và coi đó chẳng khác nào như là "đánh thuế" tất cả những người giữ đô-la trên thế giới, bắt họ đóng góp cho nền kinh tế của mình !
TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM :
Nếu Hoa Kỳ là một trường hợp ngoại lệ, thì trường hợp của Việt Nam cũng đặc biệt không kém:
1) Trước hết, cách "quản lý" vấn đề tiền tệ của Việt Nam đặc biệt kỳ quái : thông thường ít có chính phủ hay ngân hàng QG nào lại rêu rao suốt nhiều tuần trước là mình có thể phá giá đồng bạc, để rồi rốt cuộc lại không phá giá. Cách làm việc này đem lại mọi sự bất lợi : xáo trộn tiền tệ, giới đầu tư càng thêm ngại ngùng, dân chúng càng thêm mất tin tưởng vào chính sách tiền tệ khiến cho tiết kiệm đã kém lại càng kém hơn... Ngược lại không thấy có lợi gì cho nước nhà trong cách hành xử này, họa chăng chỉ có những lợi lộc kiểu mánh mung phe phái. Có thể giám đốc ngân hàng nhà nước đã thành thật cảm thấy nhu cầu cần phải giảm giá đồng bạc Việt Nam, nhưng ông không có quyền hạn để làm việc này, nên chỉ dám đưa ra trước công luận nhằm tạo một sự đã rồi. Sau đó, các áp lực đến từ nước ngoài trên các phe phái chia sẻ quyền hành ở Việt Nam đã mạnh mẽ đến độ ông phải lùi bước ? Người ta cũng không khỏi tự hỏi : ở Việt Nam những ai thực sự quyết định chính sách tiền tệ ? Một câu hỏi gần như không bao giờ phải đặt ra trong một nươc văn minh, vì đã có những định chế rõ ràng...
2) Vì sao có vấn đề phá giá đồng bạc Việt Nam ? Có những lý do để nghĩ rằng giải pháp này được đề ra trước sự thua lỗ của cán cân mậu dịch : trong tám tháng đầu năm 1996, Việt Nam đã nhập cảng nhiều hơn xuất cảng 3 tỷ 250 triệu đô-la (chưa kể hàng nhập cảng lậu). Như đã nói ở trên, giảm trị giá tiền có lợi cho xuất cảng, và bất lợi cho nhập cảng cũng như cho việc tiêu sài hàng ngoại hóa. Vì thế, trên mặt hình thức, phá giá có thể là một cách làm giảm bớt sự thất thoát tài chánh do nhập cảng nhiều xuất cảng ít. Tuy nhiên, một trong những điều khác biệt giữa Việt Nam với các nước đã giảm trị giá tiền tệ đã kể ở đầu bài, là Việt Nam chưa có một nền sản xuất mạnh. Vì thế, xuất cảng chưa chắc đã mạnh hơn nhờø đồng bạc sụt giá, vì hàng hóa dành cho xuất cảng thiếu phẩm chất và số lượng (dù rẻ cũng chưa chắc đã cạnh tranh được với hàng hóa nước khác). Số tiền phải tiêu dùng cho nhập cảng cũng chưa chắc đã giảm sút một cách thực sự hiệu quả vì nền sản xuất non kém của Việt Nam bắt buộc các xí nghiệp và tư nhân phải nhập cảng nhiều hàng hóa mà trong nước chưa làm ra được. Đó là chưa kể những nguyên liệu cần yếu cho kinh tế, bắt buộc phải mua của nước ngoài, với giá đắt hơn, vì đồng bạc Việt Nam giảm giá, giảm sức mua.
3) Một điểm khác biệt khác của kinh tế Việt Nam là sự yếu kém tiết kiệm và đầu tư nội địa. Giảm giá đồng bạc sẽ làm gia tăng khía cạnh tiêu cực này, vì nó làm cho người dân càng thêm mất tin tưởng nơi chính sách tiền tệ của chính quyền. Người dân sẽ càng thêm lùi về ẩn trốn trong các phương cách giữ tiền không có lợi cho kinh tế, như vàng và đô-la.
4) Sau hết, cần sác định đâu là động cơ chính của sự phát triển kinh tế : gia tăng tiêu thụ hay thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư ? Trong các quốc gia tiền tiến, phương thuốc cho căn bệnh trì trệ kinh tế thường là thúc đẩy tiêu thụ. Điểm khác biệt then chốt với Việt Nam là các quốc gia này có khả năng sản suất tương đối đầy đủ mặt hàng cho người dân tiêu thụ. Ngược lại, Việt Nam còn quá kém trong lãnh vực sản xuất, thêm vào đó sự tăng trưởng từng giai đoạn của lãnh vực sản xuất cho tiêu dùng nội địa chưa được điều hướng theo một kế hoạch thuận lý, mà dựa nhiều hơn vào sự chia chác giữa các phe phái cầm quyền. Vì thế, thúc đẩy tiêu thụ ở Việt Nam (phá giá, lãi suất hạ,v.v...) sẽ phần nào đồng nghĩa với "tiêu thụ hàng ngoại hóa", mang lại lợi nhuận cho các xí nghiệp ngoại quốc nhập cảng hàng hóa vào Việt Nam (một tỷ đô-la mà Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đưa vào quốc nội hàng năm một phần không nhỏ chỉ ghé ngang Việt Nam chơi chút rồi chạy ngay vào túi các chủ nhân ngoại quốc bán hàng vào nước ta).
KHUYẾN KHÍCH TIẾT KIỆM , GIẢM BỚT TIÊU THỤ
Nếu một chính sách thúc đẩy tiêu thụ không thích hợp với Việt Nam thì có thể nghĩ là cần khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Cần nhắc lại rằng đầu tư ngoại quốc trong các thập niên 60 và 70 tại Nam Hàn và Đài Loan nhỏ hơn 5 phần trăm tổng số đầu tư tại các nước này (viện trợ Mỹ, 100 triệu MK mỗi năm cho Đài Loan chấm dứt năm 1965, và cho Nam Hàn : 270 triệu MK mỗi năm cho đến cuối thập niên 60 và 140 triệu MK sau đó, chấm dứt vào giữa thập niên 70, viện trợ kinh tế cho Nam Hàn từ 1953 đến 1962 bằng 8 % Tổng sản lượng QG, và từ 1965 tới 1974 bằng 4 % TSLQG). Điều này cho thấy sức mạnh của đầu tư nội địa tại các nước trên. Không phải ngẫu nhiên mà Đài Loan hiện trở thành một trong những nước có trữ lượng tiền tệ cao nhất thế giới : nước này, trái hẳn với điều chúng ta thường thấy tại các nước Âu Mỹ hiện nay, đã áp dụng một chính sách tiền tệ thúc đẩy tiết kiệm, với lãi suất cao, và đồng tiền mạnh...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)